Trong thế chiến thứ hai M1903 Springfield

Khi thế chiến thứ hai diễn ra, vì quân đội Mỹ đã đưa vào sử dụng hai mẫu súng trường bán tự động danh tiếng M1 Garand (sau này còn có thêm cả M1 Carbine) nên số lượng súng trường M1903 Springfield được sử dụng đã bị ít dần đi. Một phần lớn số súng trường M1903 Springfield đã được giao lại cho những người lính bắn tỉa, lính hải quân và một số người lính dù, nó cũng được dùng rất nhiều bởi thủy quân lục chiến vào những ngày đầu của mặt trận Thái Bình Dương.

Khẩu súng trường M1903 Springfield có ưu điểm là khá nhẹ, độ chính xác cao nên cho dù có kính ngắm hay không có kính ngắm thì nó vẫn giữ được ưu thế của súng trường bắn tỉa. M1903 Springfield được biết là một trong những khẩu súng bắn tỉa mạnh nhất thời thế chiến thứ hai, may mắn thay đạn của M1903 Springfield sử dụng lại chính là loại đạn tiêu chuẩn của quân sự Mỹ suốt năm 1903 đến năm 1960 nên không có vấn đề gì trong việc cung cấp đạn cho nó, ống ngắm của M1903 Springfield là ống ngắm M84, một loại ống ngắm của súng trường M1 Garand nên việc cung cấp ống ngắm cho nó cũng rất dễ.

Trong thế chiến thứ hai, quân đội Mỹ cũng thử dùng súng trường M1 Garand làm súng bắn tỉa nhưng lực giật của cây Garand tương đối lớn khiến những người lính bắn tỉa Mỹ rất khó bắn trúng quân địch, đặc biệt là khẩu Garand có thể nạp đạn bằng ổ đạn 8 viên vào phiên bản bình thường nhưng phải nạp đạn từng viên một cho phiên bản bắn tỉa vì ống ngắm đã chiếm gần hết vị trí của ổ tiếp đạn, chính lý do này đã làm binh lính Mỹ không thích phiên bản bắn tỉa M1C Garand cho lắm.

Quân đội Mỹ còn thương mại hóa mẫu súng này khi họ bán nó cho Canada và Anh với số lượng lớn để họ có vũ khí chống quân phát xít Đức. Trong Thế chiến 2, người Canada cũng sử dụng khẩu M1903 Springfield và đạn .30-06 của nó như là mẫu súng trường chiến đấu bắn phát một tiêu chuẩn để thay thế cho những khẩu súng trường Ross và cỡ đạn .280 Ross đã lạc hậu từ cuối Thế chiến 1 của họ.